Du lịch Điện Biên
Du lịch Điện Biên
  • Di sản văn hóa phi vật thể Kĩ thuật đan mây, tre của người Thái tỉnh Điện Biên
  • Thời gian đăng: 19/06/2025 09:08:12 AM
  • Dân tộc Thái (các tên gọi khác là Táy, Hàng Tổng, Pa Thay, Thổ Đà Bắc) là dân tộc cư trú từ rất lâu đời trên mảnh đất Điện Biên, có hai ngành Thái đen và Thái trắng. Người Thái còn lưu giữ nhiều nét văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc trong đó, Kỹ thuật đan mây tre truyền thống là một trong những di sản văn hoá độc đáo, một sản phẩm văn hóa đặc sắc, không thể thiếu trong đời sống.
  • Kỹ thuật đan mây tre truyền thống của người Thái được hình thành, phát triển thông qua lao động sản xuất, nhu cầu về thẩm mĩ, là kết quả sáng tạo của nhiều thế hệ được lưu giữ, kế thừa và phát triển trong cộng đồng dân tộc Thái. Ban đầu việc đan lát chỉ đan các đồ dùng có hình dáng và kỹ thuật đan đơn giản nhằm mục đích đáp ứng các đồ dùng sinh hoạt trong gia đình. Trải qua quá trình tư duy sáng tạo, người Thái đã làm ra các sản phẩm đan lát có kỹ thuật cầu kỳ hơn, hình dáng đa dạng và sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau như: Đồ dùng trong sinh hoạt hàng ngày, đồ dùng trong các hoạt động tín ngưỡng, đồ dùng trong lao động sản xuất...

    S-n-ph-m-m-y-tre-N-T-u-HBL-.jpg

    Sản phẩm mây tre đan Nà Tấu. Ảnh: Hải Biên Lê

    Quy trình, kỹ thuật đan mây tre truyền thống của người Thái gồm 4 quy trình: Chọn nguyên liệu, sơ chế nguyên liệu, vót nan, nhuộm nan.

    Nguyên liệu để làm có thể là tre nứa, mây, song,.. chọn nguyên liệu là khâu quan trọng bởi nó quyết định đến độ bền đẹp của sản phẩm. Những nguyên liệu này được lựa chọn bằng kinh nghiệm thực tế truyền lại từ nhiều thế hệ của người Thái.

    Đối với tre nứa nói chung, thời điểm chặt nguyên liệu thường vào khoảng tháng 10, tháng 11 âm lịch. Vì thời điểm này tre đã đạt được yêu cầu về độ tuổi trưởng thành của cây và không bị mối mọt. Tre được chọn là những cây không quá già, cũng không quá non, không bị cụt ngọn, không bị sâu đục, ống phải thẳng và tròn đều, không sâu bệnh. Muốn tạo ra được những sản phẩm bền và đẹp thì buộc người thợ phải có con mắt tìm tre. Những cây tre có vẻ bề ngoài sần sùi, màu sắc không bắt mắt là những cây tre già thích hợp để đan lát. Còn những cây tre có màu xanh mướt, vươn thẳng lên trời thì đa số là những cây non. .

    Đối với cây mây, cây song thì chỉ lấy dây già, leo trên cây cao, có màu vàng hoặc xanh để đảm bảo độ dẻo. Đồng thời những cây mây, tre phải thẳng đều và dài thì mới cho ra sợi nan suôn mượt, để khi đan không phải nối nhiều đoạn.

    - Sơ chế nguyên liệu: Đối với cây tre, nứa, bương nói chung sau khi đã chọn được cây ưng ý thì người thợ chặt thành các đoạn dài ngắn khác nhau tùy vào từng mục đích sử dụng. Sau khi chặt được tre thì ngâm xuống ao hoặc ngâm dưới suối khoảng hai tháng để tránh mối mọt sau này.

    Còn đối với cây song, cây mây sau khi cắt được dóc hết gai nhọn, vỏ và lá, tuốt lấy sợi vàng óng rồi đem về chẻ nan. Dây mây sau khi lấy về phải được chẻ nan ngay, không để lâu vì dây sẽ khô, khó chẻ và không giữ được độ dẻo thích hợp. Sau đó mây cũng được phơi hơi tái rồi để lên gác bếp để tránh bị mọt, và tạo cho sợi mây vàng óng bền đẹp.

    - Vót nan: Chất lượng và thẩm mỹ của sợi mây, tre chính là một trong những yếu tố hàng đầu quyết định giá trị của sản phẩm mây tre đan truyền thống. Sau khi đã chia đoạn, tre nứa sẽ được pha thành các thanh nhỏ, lược bỏ phần ruột bên trong vì phần ruột dễ gây mọt sau đó chẻ thành các nam nhỏ. Tùy vào từng sản phẩm đan mà nan được chẻ có độ dày mỏng khác nhau.

    Nan sau khi chẻ xong phải vót cho trơn bóng và đều nhau, nan phải có độ mềm, nhẵn và đều, để khi đan các nan khít vào nhau. Nan sau khi vót nếu chưa dùng ngay thì mang cất lên gác bếp để hun khói cho khỏi bị mọt, khi nào cần dùng thì ngâm nước cho nan mềm ra là dùng được.

    Còn các sợi mây khi vót xong luôn được chuốt một cách kĩ càng, đều đặn để khi đan sẽ đạt độ khít cao nhất, tạo nên sự tinh tế, đẹp mắt cho sản phẩm. Khi vót nan, tay người thợ phải đưa mềm mại, uyển chuyển, đưa lưỡi dao đi nhẹ nhàng với lực đều đặn để cho ra những sợi nan đẹp, mỏng, đủ dẻo dai để cho ra sản phẩm tinh tế và bền đẹp.

    - Nhuộm nan: Màu nhuộm truyền thống cho nan là màu đen. Nước nhuộm nan được đun từ vỏ cây “mạy phay” kết hợp với lá ổi, sau khi đun khoảng 15 phút cho nguyên liệu ra hết chất và nước cô đặc lại sẽ cho nan vào luộc cùng thêm khoảng 30 phút để nước lá ổi ngấm sâu vào sợi nan, sau đó mang nan đã luộc ra ngâm dưới bùn khoảng vài hôm rồi lấy nan lên rửa sạch và phơi khô.

    Nếu màu nan sau khi nhuộm chưa đạt yêu cầu thì có thể lặp lại các thao tác nhuộm lần hai hoặc lần ba đến khi nào nan chuyển thành màu đen như ý muốn.

    Nghe-May-Tre-Dan-1.jpg

    Kỹ thuật đan mây tre của người Thái tỉnh Điện Biên

    Tùy vào mỗi loại sản phẩm mà người đan sử dụng các kỹ thuật đan khác nhau như: Đan nong mốt, nong đôi, nong ba... Dù sử dụng kỹ thuật đan nào thì trước tiên người đan phải xếp các nan dọc để tạo thành khung cho sản phẩm.

    - Đan nong mốt: Đây là cách đan cài nan ngang cứ một nhịp xuống lại một nhịp lên đều đặn trên các nan dọc tạo thành một bề mặt nan đều đặn. Với kỹ thuật đan nong mốt thưởng sử dụng để đan rá vo gạo, rổ rửa rau, quạt thóc…

    - Đan nong đôi: Đây là kiểu đan nhấc hai nan, đè hai nan và lệch nhau một nan dọc cùng chiều giữa hai hàng nan liền kề. Với cách đan nong đôi các nan hàng ngang cứ cách nhau 4 hàng thì lặp lại cách đan tương tự nhau. Với cách đan nong đôi sẽ tạo thành các hoa văn hình ziczac nối tiếp nhau.

     - Đan nong ba: Là kiểu đan nhấc ba nan, đè ba nan và lệch nhau một nan dọc cùng chiều giữa ba hàng nan liền kề. Cách đan nong ba tạo thành hoa văn đối xứng (giống hình xương cá) trên bề mặt sản phẩm.

    - Đan mắt cáo: thực ra, đây là kỹ thuật đan lóng mốt nhưng kết hợp đan nhiều nan bắt chéo nhau để tạo thành hoa văn hình lục giác.

    - Đan 4/2 hoặc 5/2: Là kỹ thuật được người Thái sử dụng để đan các đồ vật có đáy phẳng như: mẹt, nong, nia… Với kỹ thuật này, người đan nhấc 4 hoặc 5 nan đè 2 nan. Hoa văn được tạo thành là các đoạn thẳng dài ngắn liên tiếp nhau. Bên cạnh các kỹ thuật đan cố định, người Thái còn rất linh hoạt khi kết hợp đan cùng lúc nhiều kỹ thuật khác nhau. Thông thường mỗi sản phẩm thường sử dụng nhiều kỹ thuật đan khác nhau phù hợp với từng vị trí của sản phẩm như: phần trung tâm, phần thân, phần cạp hay vành của sản phẩm. Sự áp dụng linh hoạt các kỹ thuật đan không những làm cho sản phẩm chắc chắn, bền đẹp, các lớp nan dọc, ngang tránh bị xổ, bung, xê dịch…mà còn tạo ra các mô típ hoa văn trang trí trên sản phẩm đẹp mắt, có tính thẩm mỹ cao.

    - Cạp vành cho sản phẩm: Đối với các đồ dùng như rổ, rá, nong, nia, thúng...sẽ được cạp vành cho chắc chắn và tạo độ cứng để bưng, bê. Mỗi sản phẩm sẽ có hai chiếc vành: Chiếc vành trong (nẹp trong) và chiếc vành ngoài (nẹp ngoài). Sau khi uốn hoàn thiện hai chiếc vành, người thợ sẽ đặt chiếc vành trong vào lòng sản phẩm và chiếc vành ngoài đặt dưới sản phẩm rồi dùng chân để đạp tấm đan xuống và kéo vành ngoài lên sao cho chiếc vành ngoài kẹp vào sản phẩm khít chặt với chiếc vành trong. Sau đó, lấy dùi nhọn xuyên lỗ qua sản phẩm rồi dùng lạt buộc chặt miệng vành. Sau khi đã cạp vành thì phải nức vành cho sản phẩm. Đây là công đoạn cuối cùng để hoàn thiện một sản phẩm.

    - Kỹ thuật tạo hoa văn cho sản phẩm: Các hoa văn trên sản phẩm đan mây tre của người Thái được tạo ra từ các kỹ thuật bắt nan đan tạo thành các lóng nổi trên bề mặt sản phẩm và đan kết hợp các nan màu đen và các nan màu nguyên bản tạo nên các hoa văn cân xứng trên từng vị trí của sản phẩm. Các hoa văn được tạo nên hoàn toàn dựa theo khiếu thẩm mĩ và ý tưởng thiết kế của từng cá nhân cứ không có bất kỳ mẫu vẽ nào. Người đan phải tưởng tượng trong đầu ý tưởng của các hoa văn và thực hiện đan theo cách nào, kết hợp những cách đan nào để tạo ra được hoa văn mà mình mong muốn. Các kiểu đan có thể được lặp lại hoặc thay đổi khoảng cách nan, chiều hướng nan, kết hợp nhiều lối đan trên một sản phẩm…Với những thay đổi nhỏ nhưng có thể tạo ra những biến thể hoa văn rất đa dạng.

    - Kỹ thuật tạo dáng cho sản phẩm: Các kiểu đan vô cùng phong phú, đa dạng nhưng chủ yếu là sáng tạo của các nghệ nhân trên cơ sở những kiểu cơ bản. Tùy vào từng công dụng của các sản phẩm mà người đan tạo dáng cho phù hợp như các sản phẩm đáy vuông hoặc chữ nhật, thân hình trụ, miệng tròn, hình vuông, hình thang, hình trụ hay loe hình phễu...Khi đan đến phần thân của sản phẩm nếu muốn thu nhỏ vào thì người đan sẽ thắt các nan dọc sao cho khoảng cách các nan gần nhau hơn, còn khi muốn phần thân mở rộng ra thì người đan đẩy khoảng cách các nan dọc cách xa nhau hơn. Nhờ vậy mà người đan có thể tùy ý điều chỉnh hình dáng của sản phẩm theo ý muốn.

     z5410957323718_75a8c2a495a47a14bdcc2fcaa81ef65b.jpg

    Với kinh nghiệm đan điêu luyện và bí quyết riêng trong các kỹ thuật chọn nguyên liệu, vót nan, đan, tạo dáng, nức vành, tạo kiểu hoa văn...người Thái đã tạo ra những sản phẩm đan lát đặc sắc, riêng biệt của dân tộc phục vụ nhu cầu trong cuộc sống hằng ngày mà còn trở thành hàng hóa góp phần cải thiện cuộc sống của người dân. Việc thường xuyên thực hành không chỉ truyền dạy những kỹ năng nghề nghiệp mà còn ẩn chứa những thông điệp nhân văn sâu sắc về lối sống tích cực, chăm chỉ, tính nhẫn nại, kiên trì và sự sáng tạo trong tư duy của người Thái. Đây chính là các yếu tố nội sinh để đến nay di sản đang được giữ gìn, bảo tồn rất tốt và có tác động tích cực đến việc giáo dục thế hệ trẻ, góp phần xây đắp nên sự gắn kết cộng đồng, tạo nên tinh thần cố kết cộng đồng, tinh thần đoàn kết tương thân, tương trợ, truyền thống yêu lao động, đạo đức nghề nghiệp...bảo tồn những tinh hoa văn hóa dân tộc.

  • Tác giả: Mai Hoa
  • Nguồn tin: Ảnh: Hải Biên Lê, Báo Lao động